Tháng 1/1946, lúc mười hai tuổi rưỡi, tôi chuyển từ trường ôn thi The Hall ở Hampstead đến một ngôi trường rộng lớn hơn nhiều, St. Paul’s, tại Hammersmith. Cũng chính tại đó, tại Thư viện Parker, tôi lần đầu gặp Jonathan Miller. Tôi đang trốn trong góc phòng đọc một quyển sách thế kỷ 19 về tĩnh điện – vì lý do nào đó chả nhớ, đọc về “trứng điện” – thì một bóng người trùm lên trang sách. Tôi ngước lên, thấy một cậu bé cao lều khều với khuôn mặt lanh lợi, sáng sủa, cùng đôi mắt láu cá và mái tóc hung rực rỡ. Chúng tôi bắt chuyện, và trở thành bạn thân từ ấy đến nay.
Trước thời điểm đó, tôi chỉ có một người bạn thực thụ, Eric Korn, quen biết từ nhỏ. Eric theo bước tôi từ The Hall đến St. Paul’s, và giờ cậu cùng tôi và Jonathan tạo thành một bộ ba không rời, chẳng những vì lý do cá nhân mà còn lý do gia đình nữa (mấy ông cha 30 năm trước học trường y chung với nhau, và ba gia đình vẫn còn thân). Jonathan và Eric không thích Hóa học như tôi – dù một hai năm trước họ từng cùng tôi làm một thí nghiệm hóa bùm chéo: quăng một nhúm to kim loại natri vào hồ Highgate ở Hampstead Heath rồi cũng háo hức xem nó bắt lửa chạy vòng quanh mặt hồ như một thiên thạch sổ lồng, cùng ánh lửa vàng khổng lồ bên dưới – nhưng họ rất thích thú với Sinh học, và không chóng thì chầy, chúng tôi lại cùng ngồi trong lớp Sinh học, và cùng phải lòng giáo viên môn sinh của mình, Sid Pask.
Thầy Pask rất tuyệt. Thầy cũng hẹp hòi, kỳ thị, lắp ba lắp bắp (chúng tôi cứ hay làm trò nhại thầy), và không thông minh xuất chúng. Bằng cách này hay cách khác: dìm hàng, mỉa mai, chê cười hay ép buộc, thầy đều khiến chúng tôi quay lưng với tất cả các hoạt động khác – thể thao hay tình dục, tôn giáo hay gia đình, và cả các môn khác ở trường. Thầy ra yêu sách là chúng tôi chỉ được một đường mà đi như thầy.
Đa số học trò đều nhận thấy thầy là một quản đốc có yêu cầu trên trời. Họ sẽ làm mọi thứ để trốn khỏi bá quyền nhỏ nhen của ông thầy chi li này, theo cách nhìn của họ. Giằng co được một thời gian, rồi không còn phản kháng nữa – họ được tự do. Thầy Pask không còn chỉ trích họ hay đòi hỏi thời gian và công sức ở họ một cách ngớ ngẩn nữa.
Nhưng mỗi năm đều có vài đứa trong lớp phản hồi lại thách thức của thầy Pask. Đổi lại, thầy dành tất cả cho chúng tôi – thời gian và sự tận tụy dành cho môn Sinh học của thầy. Chúng tôi sẽ ở lại đến khuya cùng thầy ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Chúng tôi sẽ hy sinh ngày nghỉ cuối tuần đi xem trưng bày cây cỏ. Chúng tôi sáng sớm mùa đông lạnh lẽo tinh mơ đã thức để tham dự khóa học nước ngọt tháng Giêng của thầy. Và mỗi năm một lần – ký ức này vẫn còn chút ngọt ngào đến sâu răng mỗi khi nhớ lại – chúng tôi sẽ cùng thầy đi Millport ba tuần để học sinh học hải dương.
Millport, ở duyên hải bờ Tây Scotland, có một trạm sinh học biển trang bị ngon lành, ở đó chúng tôi được chào đón và dẫn đi xem các thử nghiệm đang tiến hành. (Thời đó, các quan sát nền móng về sự phát triển của nhím biển đang được tiến hành, và Ngài Rothschild, hiện đang tiến hành thử nghiệm thụ tinh nhím biển sắp nổi tiếng, đã rất nhẫn nại với các cậu nam sinh nhiệt tình cứ bu quanh ngó vào mấy cái đĩa petri có ấu trùng pluetus.) Jonathan, Eric và tôi cùng đi thực địa vài lần trên bờ biển đá gập ghềnh, đếm động vật và tảo biển thấy được trên mỗi mẫu diện tích được giao, từ đỉnh đá phủ đầy địa y (với danh pháp xanthoria parietina) đến bờ biển và hồ thủy triều bên dưới. Eric đặc biệt khéo léo tinh tường; có lần, khi cần dây dọi để đo chiều cao nhưng không biết tìm chỗ nào để treo, cậu đã moi một con sên biển từ chân đá, đặt đầu dây xuống dưới, và nối lại chắc nịch ở phía trên, dùng nó làm kim ghim tự nhiên.
Chúng tôi đều theo các nhóm động vật khác nhau: Eric mê mẩn các loại hải sâm; Jonathan thích họ rươi lấp lánh; còn tôi khoái mực, bạch tuộc, tất cả họ chân đầu – loài mà theo tôi là thông minh và xinh đẹp nhất trong họ không xương sống. Một ngày nọ, chúng tôi cùng đi xuống bờ biển, đến Hythe tại Kent, nơi ba mẹ Jonathan tậu một căn nhà nghỉ hè, và hôm đó đã đi câu trên tàu cá cả ngày. Ngư dân thường sẽ quăng mực trở lại biển nếu chúng mắc lưới (mực không phải là món khoái khẩu của dân Anh). Nhưng tôi khăng khăng nhờ họ giữ chúng cho mình, và đến khi ba đứa đến nơi thì đã có mấy chục con mực sẵn. Chúng tôi mang mực về nhà bằng xô và hộp, đặt vào lọ lớn ở tầng hầm, và thêm vào chút cồn để lưu giữ. Ba mẹ của Jonathan đã đi vắng, nên chúng tôi chẳng cần ngại ngần. Chúng tôi sẽ có thể mang hết chúng về trường, cho thầy Pask – tưởng tượng ra thầy sẽ cười kinh ngạc khi chúng tôi mang vào lớp – và mỗi người trong lớp sẽ có một con để phân tách, mấy đứa mê chân đầu sẽ có hẳn hai ba con. Tôi sẽ thuyết trình về chúng ở Field Club, huyên thuyên về trí khôn, bộ não to, đôi mắt có võng mạc lồi, màu sắc thay đổi chóng vánh của chúng.
Vài ngày sau, lúc ba mẹ Jonathan sắp về, chúng tôi nghe những tiếng thụi trầm đục từ tầng hầm, thế là đi xuống tìm hiểu, và phát hiện ra một cảnh tởm lợm: con mực, không được bảo quản tốt, đã trương lên và phát sinh khí làm nổ vỡ hết lọ, văng một đống mực lên tường và sàn nhà; thậm chí trên trần cũng dính vài mẩu nhỏ. Mùi ương thối kinh khủng không tưởng nổi. Chúng tôi cố hết sức cạy và lau tường sàn, dọn sạch hết các mẩu mực. Chúng tôi phun cả vòi nước xuống hầm, cười sặc sụa, nhưng vẫn không hết mùi, và khi mở cả cửa chính lẫn cửa sổ để làm hầm thoáng khí, mùi hôi bay vượt ra khỏi không gian tòa nhà, gây chướng khí trong bán kính gần 50m xung quanh.
Eric, luôn nhanh trí, đề xuất rằng chúng tôi nên ngụy trang, hay thay thế, mùi đó bằng một mùi mạnh hơn, nhưng dễ chịu – và chúng tôi quyết định sẽ chọn mùi dừa. Chúng tôi gom tiền lại mua một chai to, dùng nó tẩy tầng hầm, rồi rắc khắp nhà và khắp phần đất quanh nhà.
Một tiếng sau thì ba mẹ Jonathan về đến, và khi đến gần tòa nhà thì bị mùi dừa choáng ngợp xộc vào mũi. Nhưng khi đến gần hơn, họ chạm trán vùng đầy mùi mực thối – hai mùi này, hai khí này, vì lý do nào đó đã chen lẫn với nhau trong khoảng không hai mét. Trước khi đến được hiện trường vụ án, tầng hầm, thì mùi đã không thể chịu nổi. Cả ba đứa chúng tôi đều thẹn cả người. Đặc biệt là tôi, vì sự vụ là từ lòng tham của tôi mà ra (chẳng phải một con mực là đủ sao?) và sự ngốc nghếch không nhận ra mẫu vật cần bao nhiêu cồn mới đủ. Ba mẹ của Jonathan phải rút ngắn chuyến du lịch và về nhà (còn căn nhà nghỉ thì đến mấy tháng sau vẫn không thể ở). Nhưng tình yêu tôi dành cho loài mực vẫn không suy suyển.
Có lẽ có thể giải thích chuyện này bằng Hóa học, hoặc Sinh học, vì mực (như các loài động vật thân mềm và giáp xác) có máu xanh, không phải đỏ, do chúng phát triển một hệ thống vận chuyển oxy hoàn toàn khác với động vật có xương chúng ta. Huyết sắc tố của chúng ta, hemoglobin, chứa sắt, còn huyết sắc tố màu xanh lam-lục của chúng, hemocyanin, chứa đồng. Sắt và đồng có mức oxy hóa khác nhau, cũng có nghĩa là chúng có thể dễ dàng lấy oxy từ phổi, chuyển lên mức oxy hóa cao hơn, và nhả ra vào các mô khi cần. Nhưng tại sao lại dùng sắt và đồng khi có một kim loại khác – vanadium, ở khá gần hai chất này trong bảng tuần hoàn – có ít nhất bốn mức oxy hóa khác nhau? Tôi tự hỏi là các hợp chất vanadium có từng được dùng làm huyết sắc tố chưa, và hưng phấn hết cỡ khi nghe rằng vài loài hải tiêu và sống đuôi mang trong mình nhiều vanadium và có những tế bào đặc biệt, gọi là vanadocyte, chuyên trữ chất này. Vì sao chúng có các tế bào đó là một bí ẩn; vì chúng chẳng phải một phần của hệ thống vận chuyển oxy.
Kỳ quặc và láo xược thay, tôi nghĩ tôi đã giải được bí ẩn này trong một chuyến du ngoạn hàng năm đến Millport. Nhưng tôi chẳng đi xa hơn việc thu thập một giạ hải tiêu (cũng với lòng tham không đáy đã khiến tôi gom cả mớ mực ngày trước). Tôi nghĩ mình có thể thiêu mấy con này và đo nồng độ vanadium trong tro (tôi đọc được ở đâu đó rằng có vài loài có thể lên trên mức 40%). Điều này dẫn tôi đến ý tưởng làm ăn duy nhất từng có: mở một trang trại vanadium – hàng mẫu hải điền, gieo đầy hải tiêu. Tôi sẽ dùng chúng để trích xuất vanadium quý giá từ nước biển, theo cách chúng đã làm rất hiệu quả trong ít nhất 300 triệu năm qua, rồi bán với giá 500 bảng mỗi tấn. Nhưng cũng nhận ra, vấn đề duy nhất là phải thảm sát bao nhiêu con hải tiêu mới làm được vậy, và tôi kinh hãi với chính suy nghĩ diệt chủng của mình.